Tại Điều 9 Thông tư 47/2014/TT-NHNN có quy định về các yêu cầu về giám sát, an ninh hệ thống ATM:
Các yêu cầu về giám sát, an ninh hệ thống ATM
- Tổ chức cung cấp dịch vụ ATM phải trang bị phần mềm quản lý tập trung, theo dõi đầy đủ tức thời về tình trạng của ATM.
- Tổ chức cung cấp dịch vụ ATM có biện pháp kỹ thuật, hành chính để quản lý chặt chẽ hệ thống ATM, phát hiện kịp thời các truy cập bất hợp pháp, lắp đặt trái phép thiết bị sao chép thông tin thẻ hoặc ghi hình các thao tác người sử dụng.
+ Có hệ thống giám sát giao dịch trên hệ thống thanh toán thẻ, liên tục theo dõi nhằm phát hiện giao dịch thanh toán thẻ đáng ngờ, gian lận dựa vào thời gian, vị trí địa lý, tần suất giao dịch, số tiền giao dịch, số lần nhập PIN sai quá quy định và các dấu hiệu bất thường khác để kịp thời xử lý và cảnh báo cho chủ thẻ.
+ Hình ảnh ghi được của camera phải đủ rõ nét để phục vụ yêu cầu giải quyết tra soát, khiếu nại.
(Ảnh minh họa: Tiền phong)
- Dữ liệu nhật ký trên ATM phải được sẵn sàng truy cập trong thời gian tối thiểu 03 tháng và lưu trữ tối thiểu 1 năm.
- Tổ chức cung cấp dịch vụ ATM đảm bảo các yêu cầu khác về an toàn hoạt động ATM theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về trang bị, quản lý, vận hành và đảm bảo an toàn hoạt động của ATM.
Như vậy, theo quy định trên luật không có quy định về việc bảo vệ phải trực gác tại các trụ ATM mà chỉ yêu cầu bắt buộc ghi hình ảnh, camera phải đủ rõ nét để phục vụ yêu cầu giải quyết tra soát, khiếu nại nếu có.
Mặc dù không phải trụ ATM nào cũng có bảo vệ, nhưng khách hàng vẫn có thể yên tâm thực hiện giao dịch bằng cách lựa chọn những nơi an toàn và tuân thủ các quy tắc bảo mật.