Sau nhiều ngày làm việc, Hội đồng xét xử tuyên phạt Nguyễn Thị Thu Hà án 12 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và phải bồi thường cho bị hại.
Phạt tù nguyên trưởng phòng ngân hàng lừa đảo rút tiền gửi tiết kiệm. Ảnh minh họa |
Trong 2 ngày 28/8 và 1/9, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm và tuyên án phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu Hà (sinh năm 1972, nguyên Trưởng phòng giao dịch số 14, Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Dân - NCB, Chi nhánh Hà Nội) 12 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điều 174, khoản 4, điểm a – Bộ luật Hình sự năm 2015.
Theo truy tố, Hà đã lợi dụng chức vụ của mình, đưa thông tin gian dối về việc ngân hàng mình đang làm việc có gói sản phẩm “Bảo lãnh ngân hàng” với lãi suất cao từ 12 – 15% với khách hàng Nguyễn Bạch M. (ở Hà Nội).
Cụ thể, Hà có mối quan hệ thân thiết với vợ chồng bà M. (trú tại Nghĩa Tân, Cầu Giấy, Hà Nội).
Từ năm 2012 đến tháng 1/2016, bà M. nhiều lần gửi tiền tiết kiệm tại phòng giao dịch do Hà làm trưởng phòng.
Đến cuối năm 2015, do cần tiền để kinh doanh, Hà đã nói dối bà M. rằng, NCB đang có loại sản phẩm mới ưu đãi, chuyển từ tiết kiệm sang dạng gửi “Bảo lãnh ngân hàng” với lãi suất 12 – 13%.
Bị can thuyết phục bà M. sử dụng sản phẩm này. Hà nói với bà, phải tất toán toàn bộ số tiền đang gửi tiết kiệm tại ngân hàng NCB thay bằng chứng từ “Bảng kê tiền gửi”. Hà còn thuyết phục nạn nhân: Tiền vẫn ở trong ngân hàng, muốn rút lúc nào cũng được.
Từ ngày 6/10/2015 - 30/7/2016, bà M. đã 6 lần giao cho Hà tổng số gần 8,3 tỷ đồng, trong đó hơn 7 tỷ đồng tiền tất toán gửi tiết kiệm tại NCB, Phòng giao dịch số 14 và hơn 1,1 tỷ đồng tiền đưa thêm.
Cuối năm 2016, bà M. yêu cầu Hà cho rút tiền nhưng Hà hứa hẹn nhiều lần và không thực hiện.
Ngày 12/1/2017, bà M. đến phòng giao dịch số 14, NCB làm thủ tục rút tiền và đưa ra các bảng kê tiền gửi cho ngân viên ngân hàng thì được biết toàn bộ số tiền gửi tiết kiệm của bà M. đã được rút và tất toán từ lâu. Những bảng kê tiền gửi do Hà ký đưa cho bà M. không phải biểu mẫu của ngân hàng nên không có giá trị để rút tiền.
Bà M. làm đơn khiếu nại và NCB cho hay Hà đã nghỉ việc, ngân hàng không có sản phẩm Bảo lãnh ngân hàng, các giao dịch giữa bà và Hà là giao dịch cá nhân, không được hạch toán vào hệ thống ngân hàng. Việc Hà lợi dụng chức vụ, quyền hạn để ký, đóng dấu trên các Bảng kê tiền gửi là vi phạm quy định của ngân hàng.
Tại cơ quan điều tra, bị cáo Hà khai, sau khi nhận tiền từ bà M., bị cáo đem cho một số cá nhân và công ty khác vay. Đến nay, bị cáo chưa đòi được tiền của các cá nhân và công ty trên. Hiện, bị cáo Hà đã trả cho bà M. 6,1 tỷ đồng, còn chiếm đoạt hơn 2,1 tỷ đồng.
Trước khi vụ án được đưa ra xét xử, bà M. có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo Hà, để bị cáo trả dần hàng tháng số tiền còn lại. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cho rằng, vụ án này không thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại nên bị cáo Hà vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
Mở rộng điều tra, cơ quan công an đã làm rõ, chồng bà M. còn cho bị cáo Hà vay hơn 3,5 tỷ đồng. Bị cáo Hà mới trả được hơn 1,2 tỷ đồng. Xác định đây là quan hệ dân sự nên cơ quan điều tra không xem xét giải quyết.
Mộc Miên (T/h)