NSND Kim Cương sinh năm 1937 tại Sài Gòn, là người lên sân khấu từ khi còn trong bụng mẹ - NSND Bảy Nam (được mệnh danh là “Tổ nghề sống” của Sân khấu Cải lương Nam Bộ cùng với NSND Phùng Há). Bà có vai diễn cải lương đầu tiên trong đời với vở Quan Âm Thị Kính khi mới chỉ 18 ngày tuổi. Và rạp hát cũng chính là nơi bà học đánh vần những chữ cái đầu tiên, do cha là nghệ sĩ Phước Cương truyền dạy.
Lớn lên trong bầu không khí nghệ thuật và cải lương là vậy nhưng NSND Kim Cương từng bị mẹ và dì cấm đoán, không cho đến rạp hát. Bà có 10 năm không “dính" đến sân khấu, nhưng rồi vẫn làm nghề ở nhiều vị trí khác nhau như diễn viên, soạn giả, biên kịch, trưởng đoàn kịch... NSND Kim Cương ghi dấu ấn mạnh mẽ trong mảng kịch nói, giữ kỷ lục là người viết nhiều kịch bản Kịch nói nhất Việt Nam (khoảng 80 vở).
Cải cách lối ca diễn
Nói về nghệ thuật cải lương, NSND Kim Cương khẳng định, cải lương nghĩa là cải cách điệu hát cũ cho mới hơn. Khởi đầu của cải lương là hát bội. Theo thị hiếu khán giả, cải lương sau này mới thêm “điều này điều kia”. Ở đây, bà muốn nói đến những yếu tố định hình nên nghệ thuật sân khấu cải lương chuyên nghiệp như cốt truyện, kịch bản, trang phục…
Sau khi giã từ ánh đèn sân khấu, NSND Kim Cương dành hết thời gian cho các hoạt động thiện nguyện, cứu trợ cho những mảnh đời khuyết tật, hoàn cảnh khó khăn,…
Cha của NSND Kim Cương - nghệ sĩ Phước Cương đã có những đóng góp lớn cho cải lương bằng những cải cách chưa ai làm hồi đó. Ông mang những vở kinh điển của nước ngoài về Việt Nam biểu diễn. Trước đó, hát bội hay cải lương thường dựa những điển tích của Trung Quốc để xây dựng câu chuyện. Các vở cải lương cũng được chia thành các hồi với sự “bình dân" khiến mọi khán giả thích thú thưởng thức. Một cải cách khác chính là về trang phục. Ngày xưa, diễn viên thường mặc trang phục truyền thống gồm áo dài, khăn đóng khi biểu diễn. Tuy nhiên, NSND Kim Cương cho biết: “Sau này diễn tuồng gì thì mặc đồ đó. Hát tuồng Tây thì bận đồ đầm. Hát tuồng Tàu thì bận đồ Tàu…”.
Theo NSND Kim Cương, cha bà là người có đóng góp rất lớn cho nền sân khấu cải lương chuyên nghiệp. Các nghệ sĩ bắt đầu được trả lương theo tháng thay vì trả theo đêm diễn trước đó. Hay việc thành lập trường học về nghệ thuật sân khấu, các hội nghệ sĩ… trở nên cần thiết khi nhiều rạp hát được xây dựng, các đoàn hát ra đời.
Trước kia, rải rác trong các tỉnh miền Nam thường có những ban đờn ca tài tử trong các cuộc lễ tại tư gia, tân hôn, thăng quan… nhưng không bao giờ có đờn ca trên sân khấu hay trước công chúng. Đến khoảng năm 1912, cải lương được đưa lên trình diễn trên các sân khấu với bài trí đơn giản. Các tài tử mặc Quốc phục nghiêm trang ngồi trên bộ ván đánh đàn và có người ca cải lương.
Theo trí nhớ và được mẹ kể lại, NSND Kim Cương cho biết khởi đầu của cải lương là hát bội. Những ông thợ cắt tóc mê nhạc tài tử sau khi làm việc xong thường đem đàn ra đánh. Sau đó, họ chọn những đứa trẻ có giọng ca hay để soạn nhạc, viết lời và tập hát cho họ. Những “huyền thoại cải lương” như NSND Phùng Há, NS Năm Phỉ đều bắt đầu học hát từ khoảng 14, 15 tuổi.
Không chỉ hát, cải lương nghĩa là "ca phải ra bộ" - tức nói đến cả việc diễn xuất trong đó nữa. Đôi khi, chỉ cần nét diễn xuất và cách hát một chữ như "bớ", "hả" mà khiến công chúng ấn tượng khó phai. Nhiều nghệ sĩ ghi dấu ấn và được nhớ đến bởi cách diễn và cách hát độc đáo của họ.
NSND Kim Cương là ái nữ của ông bầu Nguyễn Phước Cương và NSND Bảy Nam.
NSND Kim Cương nhớ lại, đoàn Việt Nam trong đó có nghệ sĩ Năm Phỉ và cha bà là NS Phước Cương từng tham dự và đoạt giải Nhất một hội diễn (đấu xảo) tại Paris, Pháp. Khi nghệ sĩ Năm Phỉ hát, “các khán giả không hiểu nhưng vẫn khóc như mưa”. Vì vậy, NSND Kim Cương cho rằng, chính cách diễn xuất và tâm hồn của người nghệ sĩ đã tạo nên phản ứng đặc biệt ở người xem và chinh phục được trái tim của họ.
Cải lương cũng phải “hội nhập” với thời cuộc
Cải lương là loại hình nghệ thuật sân khấu, khác với đờn ca tài tử trước đó thường không diễn trên sân khấu hay trước công chúng đông người. Vì thế, những câu chuyện về thời cuộc để phát triển cải lương cũng đồng nghĩa với câu chuyện tạo nên thị trường phát triển. Chính cải lương cũng đã thay đổi ít nhiều về chuyện "phòng vé" tại Việt Nam. Nghe NSND Kim Cương kể lại mới thấy người xưa có cách marketing (tiếp thị) và bán vé nghe cải lương rất tài tình.
Trước đây, mỗi "vé" xem cải lương thường có giá 10 xu và đồng hạng. Tuy nhiên, ông Phước Cương đã bắt đầu bán các hạng vé khác nhau trong cùng một suất diễn. Có vé hạng Nhất, hạng Hai… với số tiền và vị trí ngồi khác nhau. Cũng vì thế, khán giả bắt đầu đi xem cải lương một cách nề nếp, quy củ hơn.
Theo NSND Kim Cương, nghệ sĩ cải lương ngày xưa thường đi hát bằng ghe. Khi tới một tỉnh nào đó, phải 3 hay 4h chiều mới lên bờ đi uống cà phê, đi thăm thú. Nhưng đó cũng là một hình thức quảng cáo cho đêm diễn cải lương. Do đó, ông Phước Cương thường nói các nghệ sĩ phải mặc đồ đàng hoàng để còn… tiếp thị. Câu nói, "đi theo mấy ghe hát" cũng từ đây mà ra đời.
“Ai coi thường nghề hát. Ai coi thường cải lương nhưng những người sống chết với nghề phải hiểu được trách nhiệm, hiểu cái thiêng liêng của nghề. Một người làm văn hoá dở sẽ “giết chết” không chỉ một thế hệ. Do đó, phận sự của người nghệ sĩ rất thiêng liêng, không chỉ mua vui bán buồn cho khán giả”, NSND Kim Cương bộc bạch.
Cũng theo NSND Kim Cương, những nghệ sĩ tiên phong của cải lương đã phải đánh đổi nhiều thứ, vượt qua chông gai để xây dựng nên một loại hình nghệ thuật sân khấu độc đáo như vậy. Để trở thành một người nghệ sĩ cần yếu tố thiên tư và sự khổ luyện. Khổ luyện mà không có thiên tư thì khó thành công. Trái lại, có thiên tư mà không chịu khổ luyện cũng khó mà thành nghệ sĩ giỏi.
Nghệ sĩ chính là việc chọn đạo, tức là đi theo con đường nào để cuộc đời mình đẹp hơn, tốt hơn. Đó cũng là lý do NSND Kim Cương chuyển qua kịch nói. Bà muốn đi thẳng vào giáo dục và kịch nói là cách tốt nhất để hướng khán giả và mọi người đi theo con đường đời đẹp hơn.
Thành Nhân