Nhập thông tin
  • Lỗi: Email không hợp lệ

Thông báo

Gửi bình luận thành công

Đóng
Thông báo

Gửi liên hệ thành công

Đóng
Đóng

Những chuyện lạ ở “nóc nhà thứ 3" của Việt Nam

(DS&PL) -

Đỉnh Chiêu Lầu Thi được ví như “nóc nhà thứ 3 của Việt Nam ẩn chứa những câu chuyện ly kỳ và thú vị khiến nhiều người phải ngỡ ngàng. rn

Đỉnh Ch?êu Lầu Th? được ví như “nóc nhà thứ 3" của V?ệt Nam ẩn chứa những câu chuyện ly kỳ và thú vị kh?ến nh?ều ngườ? phả? ngỡ ngàng.

Nghề chạm bạc đã mang v?nh hoa phú quý đến g?a tộc họ Lù ở thôn Đông Chứ 1, xã Ngán Ch?ên, huyện Xín Mần. Và đến lượt mình, lớp lớp các thế hệ con cháu nguyện “s?nh nghề tử ngh?ệp” để trả ơn t?ên tổ.

Cả g?a tộc cùng làm một nghề

Đứng ở trung tâm xã Ngán Ch?ên nhìn xuống, có thể thấy hàng chục đỉnh đồ?, nú? lớn nhỏ lô nhô xếp tầng lên nhau. Ông Xìn Đức V?ệt, Phó Chủ tịch UBND xã Ngán Ch?ên, khoe rằng, địa phương có hẳn một thôn toàn ngườ? g?àu. Ông V?ệt đích thân dẫn phóng v?ên đến thôn Đông Chứ 1, nơ? có g?a tộc họ Lù s?nh sống từ nh?ều đờ?. 

G?ao thông ở Ngán Ch?ên rất tệ, chủ yếu vẫn là đường đất, nh?ều đoạn bị nước suố? cắt ngang chưa có cầu, xe máy lao xuống là chết máy, phả? nhờ (thuê) dân bản địa khênh qua. Thế mà họ Lù ở thôn Đông Chứ 1 đã tự bỏ t?ền làm một tuyến đường bê tông ra đến tận UBND xã.

Các thành v?ên trong g?a tộc họ Lù tự hào vì nghề truyền thống của g?a đình.

Tô? ghé vào ngô? nhà sàn khang trang đầu t?ên được dựng bằng gỗ ngh?ến bào bóng nhoáng. Ông Lù Sào T?n (63 tuổ?) dáng ngườ? thanh mảnh đang ngồ? bên lò than hồng rực lửa, tay phả? nắm một thanh sắt nhỏ gắn vớ? khúc gỗ rỗng bịt kín ha? đầu, hết kéo ra lạ? đẩy vào như ngườ? cầm cưa để tạo g?ó thổ? than cháy nỏ; tay trá? cầm ch?ếc kìm sắt kẹp một chén đất nung chứa những mảnh bạc vụn màu xám đục hơ trên lửa. Sau kh? những mảnh bạc bị nung chảy, ông nâng chén lên trước ngực, phùng m?ệng lấy hơ? rồ? thổ? bay lớp màng tro nổ? lềnh phềnh trên bề mặt tạo ra những t?a sáng như pháo bông đang cháy.

Ngườ? thợ chạm bạc lật một v?ên gạch đất đã khoét rãnh ở g?ữa, từ từ ngh?êng chén rót bạc vào đó, trong nháy mắt, chất lỏng màu đỏ chuyển thành một thanh bạc thon như cây bút chì trắng muốt. Dộ? gáo nước cho hạ nh?ệt, ông T?n cầm thanh bạc đặt lên một tảng sắt, cứ thế dùng búa nện thành một dây bạc dà? thuồn thuột. “Từ dây bạc này, tô? có thể kéo thành sợ? chỉ, sợ? tóc nhờ tấm kẽm đục nh?ều lỗ có kích cỡ khác nhau. Nh?ều ngườ? học cả đờ? cũng không làm được kỹ thuật này đâu”, ông T?n khoe.

Ông Lù Sào T?n ghép các ch? t?ết bạc lạ? vớ? nhau.

Không để lỗ?

Ông T?n bảo: "Thôn Đông Chứ 1 có 14 hộ thì tất thảy đều là con cháu g?a tộc họ Lù. Nghề chạm bạc đã có từ đờ? cụ nộ? tô?, đến lớp lớp các thế hệ con cháu t?ếp nố?, a? cũng g?ữ ngh?ệp t?ên tổ truyền lạ?".

Những thành v?ên của g?a tộc họ Lù ở Đông Chứ 1 vẫn tự hào rằng, ở đâu có ngườ? Nùng thì ở đó có sản phẩm trang sức của g?a đình mình chế tác. Không chỉ dân buôn vàng bạc ở Hà G?ang, mà các tỉnh lân cận như Tuyên Quang, Yên Bá?, Cao Bằng, Lào Ca?… cũng tìm đến đặt hàng. 

Ngườ? Nùng quan n?ệm, bạc là h?ện thân của tình yêu vĩnh cửu, vì thế, trong những đám cướ? hỏ?, trên ngườ? cô dâu có nh?ều trang sức bằng bạc, từ ch?ếc khuy, đồng xu đính trên áo, đến bộ xà tích lúc lắc cạp quần, đô? lắc tay to như qua? đồng hồ trên tay và 4 - 5 ch?ếc dây chuyền to nhỏ vớ? những hình thù khác nhau lủng lẳng trước ngực

Họ Lù ở thôn Đông Chứ được thừa hưởng bộ khuôn đúc bạc quý g?á tổ t?ên để lạ?. 

Mỗ? họa t?ết đều mang một ý nghĩa r?êng, thể h?ện văn hóa của ngườ? Nùng từ nếp nghĩ đến s?nh hoạt đờ? thường. Ví dụ, ch?m bồ câu tượng trưng cho khát vọng hoà bình; rồng - phượng tượng trưng cho cuộc sống vợ chồng hạnh phúc; đồng bạc thể h?ện ước vọng đổ? đờ? và những dây chuyền ghép từ những mắt xích là h?ện thân của t?nh thần gắn kết cộng đồng… Ông T?n cho b?ết, một bộ trang sức của cô dâu phả? mất từ 1 - 1,5 kg bạc trắng, tùy vào đ?ều k?ện của mỗ? g?a đình. Và đó cũng là số t?ền mà nhà gá? thách cướ? nhà tra?.

“Đồ trang sức của g?a tộc tô? là thứ hàng độc nhất vô nhị, chẳng a? có thể nhá? được. Bở? chúng tô? được tổ t?ên truyền lạ? hàng trăm khuôn đúc mang hình thù khác nhau, t?nh xảo đến mức nh?ều ch? t?ết phả? so? kính lúp mớ? nhìn thấy. Và khoảng 90\% họa t?ết được đục, uấn, g?ũa, cắt và hàn… bằng tay. Có những đồ trang sức, chỉ cần lỗ? một họa t?ết, chúng tô? sẵn sàng đập bỏ và nung lạ?, tuyệt đố? không bán hàng lỗ?. Trong quy tắc nghề ngh?ệp của dòng họ quy định không a? được uống rượu trước và trong g?ờ làm v?ệc”, ông T?n t?ết lộ.

Có lẽ, vì cảm mến tính tỉ mẩn và cầu toàn đầy trách nh?ệm đố? vớ? từng sản phẩm của thợ k?m hoàn họ Lù mà ngườ? ta chấp nhận vượt bao ngọn đồ?, quả nú? tìm đến vùng đất g?ữa mây mù đặt hàng. T?ền bạc, g?àu sang được s?nh ra từ đó. Vào ngày mồng 1 hàng tháng, g?a tộc họ Lù lạ? g?ết lợn béo, dê đực, gà, ngan, ngỗng… bày mâm cao cỗ đầy họp mặt các thành v?ên. Nếu nhìn thấy cuộc sống sung túc ấy, có lẽ nh?ều g?a đình ở phố thị cũng thấy thèm thuồng.

Ước mơ một làng nghề

Nghề chạm bạc đã mang v?nh hoa cho những ngườ? thợ k?m hoàn họ Lù, nhưng để tạo ra những món đồ trang sức t?nh xảo đến từng ch? t?ết nhỏ hơn cả hạt cát, lóng lánh ánh k?m, họ đã lao động mệt nhọc đến đổ mồ hô?, sô? nước mắt. 

Ông T?n ch?a sẻ: Muốn nung những mảnh bạc vụn tan chảy và đổ thành một khố? để chế tác, ngườ? chạm bạc phả? có được những hòn than cháy nỏ, lâu tàn và s?nh nh?ệt cao. Ở dướ? xuô?, ngườ? ta dễ dàng mua than đá vớ? g?á bèo bọt, nhưng Ngán Ch?ên là xã “cùng trờ?”, đường đ? h?ểm trở, vận chuyển than lên để làm thì sạt ngh?ệp.

Bạc là vật trang trí bắt mắt nhất trong trang phục của cô gá? ngườ? Nùng.

Sống trên nú?, đương nh?ên phả? lấy củ? đốt than, nhưng chỉ những cây gỗ cứng mọc tít trên đỉnh Ch?êu Lầu Th? cao hơn 2.000 m mớ? tạo ra chất than thượng hạng để nung bạc. Vào mùa hạ, trang sức bán chậm, kh? mặt trờ? còn trốn sau đỉnh nú?, ông T?n và ngườ? con tra? Lù Văn Chưởng lạ? lục tục dậy, đeo trên ngườ? lủng lẳng cơm nắm, dao dựa, bạt n? lông… leo qua những con dốc dựng ngược lên đỉnh nú? tìm cây chết khô xếp lạ? thành đống, sau đó đốt cháy thành than. Vì đường sá xa xô?, ha? bố con phả? lợp lều ngủ lạ? g?ữa rừng chờ sáng hôm sau đúc than vào bao tả? vác xuống nú?. Chuyện trượt chân ngã toé máu là chuyện thường.

Vớ? những ngườ? thợ chạm bạc ở thôn Đông Chứ 1, 24 g?ờ một ngày là quá ít. Bở? “làm bừa, làm ẩu để k?ếm t?ền là bất nhân, bất h?ếu vớ? tổ t?ên bao đờ? gìn g?ữ, phát tr?ển nghề; g?ao hàng chậm là bất tín vớ? khách hàng”. Vì thế, họ bắt đầu công v?ệc trước bình m?nh và chỉ ngừng tay kh? ánh trăng đã vượt lên đỉnh nú? cao nhất. 

Ông T?n và tất cả thành v?ên trong g?a tộc họ Lù vẫn ngày ngày chờ đợ? g?ây phút được treo tấm bảng gh? dòng chữ “Làng nghề chạm bạc Đông Chứ 1" trước cổng thôn. Và, mong mỏ? ấy sắp trở thành h?ện thực kh? chính quyền xã Ngán Ch?ên đang dốc sức hoàn th?ện những thủ tục cuố? cùng để công nhận làng nghề chạm bạc tạ? địa phương.

Theo NNVN

Tin nổi bật