(ĐSPL) - Liên quan đến sự việc một cán bộ của TP. Hà Nội hành hung cụ ông đến nhập viện, các luật sư đã đưa ra những quan điểm của mình.
Trước đó báo chí đưa tin, cụ ông Nguyễn K. (76 tuổi) đang đi tập thể dục đến đoạn đường Trần Đại Nghĩa (gần khu tập thể ĐH Bách khoa Hà Nội) thì bị một cô gái trẻ đi xe máy trái chiều húc ngã.
Sau khi va chạm với cô gái, cụ ông này bị một người đàn ông được cho là “cán bộ” hành hung đến mức phải nhập viện.
Người hành hung cụ ông 76 tuổi là ông Nguyễn Đức Hoàng (SN 1977), Phó giám đốc Trung tâm dịch vụ đối ngoại, đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Ngoại vụ Hà Nội.
Luật sư Sơn Hải – VP Luật sư Danh Chính cho rằng hành vi nêu trên của vị cán bộ Sở là không thể chấp nhận được. Hành vi đó thể hiện tính côn đồ và không đáng có ở một cán bộ Sở.
“Rất có thể cán bộ kia chưa biết phải trái đã đánh, gây thương tích cho người khác bất kể người đó là ai, có lỗi hay không” – Luật sư Sơn Hải nói.
Theo quy định tại điều điều 2, Luật người cao tuổi thì cụ 76 tuổi kia là người cao tuổi (còn theo quy định tại Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP và Nghị quyết 01/2007/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì cụ Nguyễn K là người già, quá yếu. Hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe cụ Nguyễn K nêu trên của vị cán bộ Sở vi phạm khoản 4, điều 5 và khoản 1, 2 Luật người cao tuổi.
Trong trường hợp xác định thương tích của cụ Nguyễn K do hành vi trực tiếp của vị cán bộ Sở gây ra thì vị cán bộ Sở phải trực tiếp bồi thường cho cụ Nguyễn K như: Chi phí khám chữa bệnh; phục hồi sức khỏe.... Mức cụ thể do hai Bên thỏa thuận hoặc do Tòa án quyết định.
Theo luật sư Vũ Hồng Thanh – Trưởng VP luật sư Hà Phát nhận định hành vi hành hung cụ già của ông H. có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích. Bên cạnh đó, ông H còn phải chịu trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại cho cụ già. Hành vi của cán bộ Hoàng trong trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích điều 104 BLHS.
Nếu mức độ thương tích của cụ là dưới 11% thì ông H. sẽ phạm tội cố ý gây thương tích theo quy định tại điểm d khoản 1 điều 104 BLHS “Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ.”.
Trường hợp mức độ thương tích của cụ trên 11% thì tùy mức độ phạm tội Cố ý gây thương tích, khung hình phạt dành cho họ được quy định tại các khoản 2, 3, 4 của điều luật – tức là tương ứng với mức độ thương tích họ gây ra cho cụ.
Luật sư Thanh cũng cho biết thêm, theo quy định tại khoản 1 điều 105 BLTTHS về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu người bị hại có quy định như sau : “1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc.
Trong trường hợp mức độ thương tích của cụ dưới 11% thì ông H. sẽ bị khởi tố về tội cố ý gây thương tích theo điểm d khoản 1 điều 104 BLHS nếu như ông H có yêu cầu. Nếu cụ không có yêu cầu thì ông H. sẽ không bị khởi tố hình sự nhưng vẫn phải xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại điểm a khoản 2 điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ – CP ngày 22/11/2013 Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình thì người nào có hành vi đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ bị phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng.
“Hành vi hành hung của cán bộ H. trên dù bị xử phạt hành chính hay bị truy cứu trách nhiệm hình sự đều phải bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho cụ theo quy định của Bộ luật Dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.” - Luật sư Thanh nhấn mạnh.
Điều 104 Bộ luật hình sự quy định về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác như sau: "1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm: a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người; b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người; d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; e) Có tổ chức; g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê; i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm; k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân. 2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm. 4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân". Như vậy, theo quy định trên đối với trường hợp phạm tội tại Khoản 2 Điều 104 Bộ Luật Hình Sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. |
Hải Đăng
Clip đang được xem nhiều:
[mecloud]IuZa1s1Cvy[/mecloud]