Lợi dụng sự tin tưởng của người thân và bạn bè, giám đốc công ty viễn thông tin học đã lừa bán thẻ cào điện thoại với giá rẻ để chiếm đoạt 17 tỷ đồng.
Theo báo Sài Gòn Giải Phóng, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an TP. Hồ Chí Minh cho biết đã hoàn tất kết luận điều tra, đề nghị Viện KSND TP. Hồ Chí Minh truy tố Trần Quốc Bảo (sinh năm 1985, Giám đốc Công ty TNHH Dịch vụ viễn thông tin học miền Nam - trụ sở tại quận Gò Vấp TPHCM) về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Với chiêu dẫn dụ bạn bè mua thẻ cào giá rẻ, Bảo lừa được 17 tỷ đồng - Ảnh: báo Công an nhân dân |
Báo Công an nhân dân đưa tin, sau khi tốt nghiệp Cao đẳng Điện lực TP.HCM, Bảo không về quê mà ở lại đây thuê nhà, bán trà sữa kiếm sống. Do muốn làm giàu nhanh, anh ta chuyển sang bán thẻ cào điện thoại bằng cách huy động vốn bằng nhiều thủ đoạn để chiếm đoạt tiền của các nạn nhân.
Sau khi tìm được nguồn cung thẻ cào là một doanh nghiệp ở quận Gò Vấp, Bảo thành lập Công ty TNHH Dịch vụ Viễn thông Tin học Miền Nam (Công ty Viễn thông Tin học Miền Nam) do anh ta làm giám đốc. Một mặt Bảo bán hàng trực tiếp tại công ty, mặt khác Bảo nhờ mẹ ruột ở quê tìm mối giúp.
Bảo “quảng cáo” là cùng bạn bè làm việc tại Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel), Tổng Công ty Viễn thông (Mobifone), Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (Vinaphone)... nên mua được thẻ cào giá rẻ. Bảo cam kết sẽ bán ra cho khách hàng giá gốc, đơn hàng đặt số lượng càng lớn thì chiết khấu càng cao.
Tuy nhiên, do không có vốn để kinh doanh, Bảo đã nghĩ ra cách “mua cao, bán thấp” và “lấy khách hàng nuôi khách hàng”.
Tức là, Bảo mua thẻ cào giá 94.500 đồng/thẻ (mệnh giá 100.000 đồng), nhưng bán lại cho khách hàng thấp hơn từ 4% đến 6,5%, mục đích là để khách hàng thấy lợi cao, giao tiền cho Bảo. Khi khách đặt hàng, Bảo yêu cầu người mua hàng chuyển tiền trước 3 ngày để chiếm dụng tiền người này mua thẻ cào đưa cho người trước.
Trong số các nạn nhân tố bị lừa tiền qua việc mua thẻ cào thì chị Võ Thị Tố Trinh (51 tuổi, ngụ huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận) là người bị chiếm đoạt tiền nhiều nhất. Theo chị, sau khi nghe mẹ của Bảo giới thiệu bán thẻ cào điện thoại, do tin tưởng mẹ con này là người cùng địa phương, hơn nữa anh ta chào giá hết sức hấp dẫn, thấp hơn hẳn các mối chị đang lấy.
Cụ thể, tất cả các loại thẻ loại mệnh giá 100.000 đồng được bán cho chị Trinh 90.000 đồng/thẻ, chiết khấu 10%. Nếu đơn hàng trên 1 tỷ đồng, giá bán chỉ còn 88.000 đồng/thẻ và chiết khấu tăng lên 12%. Vì vậy, nên chị Trinh đồng ý “làm ăn” với Bảo.
Thời gian đầu, do chưa thật sự tin tưởng, chị Trinh chỉ mua số lượng thẻ cào chỉ có trị giá dao động từ vài chục đến vài trăm triệu đồng/đơn hàng, khi nào bán hết mới dám đặt đơn hàng mới. Sau 3 tháng “làm ăn” với nhau, thấy người này giữ uy tín, giao hàng đúng hẹn, vì vậy chị Trinh đã không ngần ngại tăng số lượng và trị giá đơn hàng.
Thấy “mồi” đã cắn câu, Bảo tung ra chiêu khuyến mãi “mua 100 thẻ tặng 5 thẻ”, chị đã huy động vốn từ người thân, bạn bè để đặt hàng số lượng lớn. Tháng cao nhất, chị đặt 27 đơn hàng với tổng trị giá 106,5 tỷ đồng.
Tuy nhiên, do cứ xoay vòng, số tiền đơn hàng sau bị rút để bù vào đơn hàng trước nên bị hụt dần, nên Bảo nhận tiền nhưng không giao hàng cho chị Trinh. Khi chị cần gặp thì Bảo nại ra đủ lý do như đi công tác, hội nghị khách hàng.
Số tiền chị bị chiếm đoạt hơn 11 tỷ đồng. Tương tự, với thủ đoạn trên, Bảo chiếm đoạt của ông Dương Đình Bình (ngụ TP Phan Rang, tỉnh Ninh Thuận) hơn 2 tỷ đồng, ông Đặng Xuân Thiện (ngụ huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận) hơn 2,4 tỷ đồng, bà Tôn Nữ Khánh Tiên (ngụ huyện Ninh Sơn, Ninh Thuận) 945 triệu đồng và ông Phan Văn Dũng (ngụ huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận) hơn 320 triệu đồng.
Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009): 1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Tái phạm nguy hiểm; d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; g) Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Chú ý: Thông tin pháp lý trong hộp nội dung này được trích từ nguồn trên mạng Internet, nên chỉ mang tính tham khảo |
(Tổng hợp)