Đổi mới phương thức lãnh đạo là một vấn đề có tính quy luật, là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình lãnh đạo cách mạng.
Trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ, yêu cầu đối với vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng cũng đặt ra những đòi hỏi mới cao hơn. Làm sao để Đảng đủ năng lực dẫn dắt đất nước trở thành quốc gia hùng cường, hưng thịnh, hạnh phúc khi kỷ niệm 100 năm thành lập nước.
Xung quanh vấn đề này, Đời sống & Pháp luật (ĐS&PL) đã có cuộc trao đổi với PGS. TS Nguyễn Bá Chiến – Giám đốc Học viện Hành chính và Quản trị công để cùng nhìn nhận sâu hơn về yêu cầu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong kỷ nguyên mới.
ĐS&PL: Thưa ông, thời gian gần đây, chúng ta nhận thấy các nghị quyết mới của Đảng đã phản ánh một tinh thần rất mới, đều mang tính cụ thể, định lượng, chú trọng đến lộ trình và cơ chế thực thi. Tổng Bí thư Tô Lâm trong phát biểu mới đây cũng nhấn mạnh việc phải chuyển từ “ban hành chủ trương” sang “quản trị thực thi”.
Ông nhìn nhận đây có phải là dấu hiệu cho thấy Đảng ta đang có những điều chỉnh, đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của mình không? Và nếu điều chỉnh thì đó là gì?
PGS.TS Nguyễn Bá Chiến: Quan sát của bạn rất xác đáng. Đây không chỉ là một dấu hiệu, mà là một sự khẳng định rõ ràng về một sự chuyển đổi sâu sắc và mang tính bước ngoặt trong phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự điều chỉnh này có thể được định danh là sự dịch chuyển từ phương thức “lãnh đạo bằng định hướng chủ trương” sang phương thức “lãnh đạo bằng quản trị thực thi”.
Trên thực tế, trong một thời gian dài, vai trò lãnh đạo của Đảng chủ yếu thể hiện qua việc ban hành Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, nghị quyết mang tính định hướng chiến lược. Đây là phương thức phù hợp trong giai đoạn đấu tranh giành độc lập và những năm đầu xây dựng đất nước, khi nhiệm vụ trọng tâm là xác lập con đường và mục tiêu lớn.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, phương thức này bộc lộ hạn chế là có thể tạo ra “độ trễ chính sách” hay khoảng cách giữa chủ trương đúng đắn và kết quả thực tiễn. Chủ trương, chính sách đúng nhưng khó đo lường, đánh giá vì chưa có chỉ tiêu định lượng rõ ràng và sự giám sát kết quả thực thi. Lâu nay chúng ta vẫn nói: chủ trương, chính sách đúng nhưng khâu yếu kém nhất là khâu thực thi.
Để khắc phục tình trạng trên, chúng ta thấy trong các nghị quyết gần đây (như Nghị quyết 57, 59, 66, 68, cùng 70, 71, 72) và trong phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm, đã có sự bổ sung, hoàn thiện và nâng tầm phương thức lãnh đạo, chuyển nhanh từ “ban hành chủ trương” sang “quản trị thực thi”, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, lấy hiệu quả thực tiễn làm thước đo.
Sự chuyển hướng này, không phủ nhận vai trò định hướng chiến lược, mà tập trung vào khâu còn hạn chế là tổ chức thực hiện. Nói cách khác, Đảng yêu cầu mỗi nghị quyết phải được cụ thể hoá thành chương trình hành động rõ ràng, có nguồn lực, thời hạn, chỉ số đo lường, giám sát và giải trình.
ĐS&PL: Thưa ông, đâu là những đặc trưng chính để nhận diện sự chuyển hướng từ phương thức truyền thống sang phương thức lãnh đạo bằng quản trị thực thi?
PGS.TS Nguyễn Bá Chiến: Trước hết, về tính cụ thể và định lượng, thay vì các mục tiêu chung, các nghị quyết mới xác định rõ chỉ tiêu (KPI), sản phẩm đầu ra cụ thể, có thể đo lường được. Ví dụ, Nghị quyết 68-NQ/TW (về phát triển kinh tế tư nhân) đặt ra các chỉ tiêu định lượng rất cụ thể: trong năm 2025 phải cắt giảm ít nhất 30% thời gian xử lý thủ tục hành chính và 30% chi phí tuân thủ pháp luật; phấn đấu đến năm 2028 đưa môi trường kinh doanh Việt Nam vào nhóm 3 nước hàng đầu ASEAN.
Tương tự, Nghị quyết 66-NQ/TW nhấn mạnh “xây dựng pháp luật phải bám sát thực tiễn, đứng trên mảnh đất thực tiễn của Việt Nam” và đưa thể chế trở thành lợi thế cạnh tranh cho phát triển. Những ví dụ trên cho thấy lãnh đạo Đảng đang đặt trọng tâm vào các kết quả cụ thể và cơ chế thực thi.
Thứ hai, các quyết sách gần đây đều xác định quy trình và lộ trình rất rõ ràng, mỗi chủ trương lớn đều đi kèm một đề án thực thi chi tiết, xác định rõ lộ trình theo từng giai đoạn, các mốc thời gian cụ thể phải hoàn thành, từng cơ quan thực hiện cụ thể.
Đặc biệt, tính trách nhiệm và cơ chế kiểm soát cũng được đặc biệt nhấn mạnh, nguyên tắc “rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ lộ trình, rõ hiệu quả” được đề cao. Các cơ chế giám sát, kiểm tra, đánh giá và quy trách nhiệm cá nhân người đứng đầu được thiết kế chặt chẽ ngay trong văn bản.
Đây là một sự thay đổi về chất trong tư duy lãnh đạo, từ việc “chỉ đường” sang “cùng đi và giám sát đến cùng”. Đảng không chỉ đưa ra ý tưởng mà còn kiến tạo cơ chế, xác lập công cụ, đo lường hiệu quả và chịu trách nhiệm cuối cùng về kết quả thực thi. Đó chính là bản chất của quản trị hiện đại.
ĐS&PL: Thưa ông, một trong những điểm rất mới trong các quyết sách gần đây là yêu cầu tích hợp tri thức, chuyên môn, dữ liệu và các công cụ quản lý hiện đại vào quy trình ra quyết định chính trị. Nhìn từ góc độ khoa học quản trị công, ông nhìn nhận như thế nào về xu hướng này?
PGS.TS Nguyễn Bá Chiến: Xu hướng này có thể được xem là một quá trình “kỹ trị hóa” (technocratization) phương thức lãnh đạo của Đảng. “Kỹ trị hóa” ở đây không có nghĩa là các nhà kỹ thuật thay thế các nhà chính trị, mà là việc tích hợp các nguyên tắc, công cụ và tư duy của khoa học quản trị hiện đại vào quá trình lãnh đạo chính trị. Quá trình này thể hiện rõ ở việc đề cao vai trò của tri thức, chuyên môn và dữ liệu trong ra quyết định, được thể hiện bởi một số đặc trưng:
Một là, ra chính sách, ban hành quyết sách dựa trên bằng chứng (Evidence-Based Policymaking). Các chủ trương không còn chỉ dựa trên ý chí chính trị hay kinh nghiệm mà phải được luận giải bằng các dữ liệu khách quan, phân tích khoa học, dự báo tác động đa chiều. Điều này giúp chính sách đi vào cuộc sống với hiệu quả cao hơn và ít rủi ro hơn.
Hai là, lấy hiệu quả quản trị làm thước đo (Performance-Oriented Governance). Năng lực của một tổ chức đảng hay một cán bộ lãnh đạo được đánh giá dựa trên kết quả cụ thể, đo lường được mà họ mang lại cho địa phương, cho ngành, cho đất nước, chứ không chỉ dựa vào việc chấp hành nghị quyết một cách hình thức.
Ba là, tối ưu hóa và chuyên nghiệp hóa. Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo được thiết kế như một quy trình quản lý khoa học, từ khâu hoạch định, tổ chức, phân công, đến kiểm tra, giám sát và điều chỉnh. Điều này đòi hỏi và cũng thúc đẩy sự chuyên nghiệp hóa của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, đội ngũ tư vấn, tham mưu chính sách và đội ngũ thực thi chính sách.
Bốn là, tính minh bạch và trách nhiệm ngày càng được tăng cường. Theo đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong các cơ quan đảng giúp cải thiện minh bạch, công khai thông tin và trách nhiệm giải trình. Nhân dân là trung tâm, giám sát quá trình thực thi chính sách. Điều này củng cố niềm tin của xã hội vì người dân thấy được tiến độ và kết quả cụ thể của chủ trương.
ĐS&PL: Theo ông, mô hình lãnh đạo “kỹ trị hóa” sẽ đem lại những chuyển biến cụ thể nào đối với hiệu quả quản trị quốc gia và niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng?
PGS.TS Nguyễn Bá Chiến: Đối với hiệu quả quản trị quốc gia, nó trực tiếp giải quyết căn bệnh “chính sách trên giấy”, giảm thiểu sự trì trệ, thiếu trách nhiệm trong thực thi chính sách. Nguồn lực quốc gia được phân bổ và sử dụng hiệu quả hơn. Môi trường đầu tư kinh doanh trở nên minh bạch, dễ dự báo hơn, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Đối với niềm tin xã hội, niềm tin không đến từ những lời hiệu triệu chung chung, mà được xây dựng từ những kết quả thực tế. Trong thể chế Đảng cầm quyền, lãnh đạo, tính chính danh ngày càng cần phải dựa vào kết quả. Khi người dân thấy đường được làm nhiều hơn; trường học được xây nhiều hơn; học phí được miễn, viện phí được miễn; thủ tục hành chính nhanh gọn hơn; tham nhũng, tiêu cực, lãng phí được ngăn chặn, bị đẩy lùi... một cách hữu hình, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ được củng cố một cách bền vững.
Nhìn chung, mô hình này sẽ chuyển trọng tâm xây dựng tính chính danh của Đảng từ “chính danh lịch sử” sang củng cố bằng “chính danh quản trị phát triển”.
ĐS&PL: Trong 95 năm qua, Đảng luôn đổi mới phương thức lãnh đạo gắn với yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng. Theo ông, đâu là tính tất yếu và quy luật mang tính khách quan để Đảng phải tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo trong kỷ nguyên mới?
PGS.TS Nguyễn Bá Chiến: Đúng vậy, trải qua 95 năm, Đảng luôn gắn đổi mới phương thức lãnh đạo với yêu cầu thực tiễn của từng giai đoạn cách mạng. Đây là quy luật khách quan của lịch sử. Mỗi thời kỳ với bối cảnh và thách thức khác nhau đòi hỏi phương thức lãnh đạo thích ứng. Sự thay đổi lần này không phải là ngẫu nhiên, mà xuất phát từ những đòi hỏi tất yếu khách quan của bối cảnh trong nước và quốc tế.
Trước hết là yêu cầu từ thực tiễn phát triển của đất nước. Sau gần 40 năm thực hiện công cuộc Đổi mới, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu quan trọng: tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình đạt 6,6%/năm giai đoạn 1986 – 2023; theo dự báo năm 2025 quy mô nền kinh tế đạt trên 500 tỷ USD, đứng thứ 30 nền kinh tế lớn nhất thế giới, thu nhập bình quân đầu người năm 2025, dự kiến trên 5000 USD. Nước ta bắt đầu đạt ngưỡng tiêu chuẩn nước có thu nhập trung bình cao. Theo báo cáo của ngân hàng thế giới, rất ít quốc gia vượt qua được “bẫy thu nhập trung bình”. Việt Nam đặt mục tiêu trở thành nước phát triển, thu thập cao vào năm 2045. Như vậy, chúng ta còn 20 năm để thực hiện mục tiêu chiến lược này, đòi hỏi một động lực tăng trưởng mới. Động lực này không còn có thể dựa vào lao động giá rẻ hay tài nguyên thiên nhiên, mà phải dựa vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và đặc biệt là hiệu quả quản trị. Một mô hình quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả chính là nguồn lực cạnh tranh quan trọng nhất. Giai đoạn phát triển mới, đặt ra yêu cầu phải đổi mới phương thức lãnh đạo nhằm tạo động lực và không gian phát triển mới.
Bên cạnh những thời cơ, các thách thức vẫn đang hiện hữu. Việt Nam là 1 trong 5 quốc gia bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi biến đổi khí hậu. Năm 2024, chỉ 1 cơn bão Yagi đã gây thiệt hại kinh tế đến hơn 88.700 tỷ đồng, bằng 0.62% GDP năm 2023, làm giảm khoảng 0.24% GDP năm 2024, làm 320 người chết, 25 người mất tích, hàng nghìn ngôi nhà bị hư hỏng… Trong năm 2025, những hiện tượng thời tiết dị thường, cực đoan, ảnh hưởng của các cơn báo số 5, số 10 cũng gây thiệt hại rất lớn cả về người, về của… Theo dự báo, chúng ta chỉ còn khoảng 10 năm là hết giai đoạn dân số vàng (năm 2036). Cơ hội sẽ lướt nhanh, thời gian không chờ đợi chúng ta, đòi hỏi sự quyết đoán về chiến lược và khẩn trương trong hành động thực thi. Không đổi mới quản trị mang tính hệ thống, Việt Nam sẽ rơi vào giai đoạn “chưa giàu đã già”. Khi đó, gánh nặng an sinh xã hội, và các vấn đề xã hội sẽ đẩy nhanh tiến trình rơi vào bẫy “thu nhập trung bình”.
Yêu cầu thay đổi cũng xuất phát từ trình độ dân trí ngày càng cao, người dân có yêu cầu lớn hơn về tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và hiệu quả của bộ máy nhà nước. Người dân không chỉ mong Đảng đề ra đường lối đúng, mà còn yêu cầu Đảng phải lãnh đạo thực thi đường lối đó một cách hiệu quả, mang lại lợi ích thiết thực cho họ. Đảng phải đáp ứng được kỳ vọng chính đáng này để giữ vững vai trò và sự gắn bó máu thịt với nhân dân.
Đặc biệt, môi trường toàn cầu bất định, đặt ra yêu cầu không chỉ là “quản trị sự thay đổi” mà là “thay đổi cách thức quản trị”. Liên Hợp Quốc nhận định: thời đại mà các quốc gia đang đối diện là “Thời đại bất định, cuộc sống bất an, xây dựng tương lai trong một thế giới đang chuyển đổi”. Các quốc gia đối mặt với những biến động bất ngờ, khó lường: đại dịch, an ninh phi truyền thống, xung đột địa chính trị, cạnh tranh chiến lược, khủng hoảng chuỗi cung ứng, biến đổi khí hậu… Điều này buộc mỗi quốc gia phải nâng cao năng lực quản trị linh hoạt, thích ứng và có khả năng phục hồi nhanh. Để dẫn dắt đất nước vượt qua thách thức, tận dụng cơ hội, Đảng cần một phương thức lãnh đạo linh hoạt, nhanh nhạy, khoa học và có khả năng ra quyết định chính xác dựa trên dữ liệu lớn và phân tích phức tạp.
Vừa qua, chúng ta đã và đang thực hiện quyết liệt cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, triển khai thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp. Số đơn vị hành chính, số cấp chính quyền tinh gọn, với quy mô không gian phát triển lớn hơn, tầm nhìn quản trị lớn hơn, đòi hỏi rất cao ở năng lực tư duy, năng lực quản trị của bộ máy lãnh đạo, quản lý và năng lực thực thi của hệ thống.
Chuẩn mực mới không thể giải quyết bằng tư duy cũ, cách làm quen thuộc. Chúng ta đối diện với nhiều thách thức nhưng điều thách thức hơn là dùng phương thức cũ, không phù hợp để xử lý những vấn đề mới chưa từng có trong tiền lệ.
Phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền phải luôn đi trước một bước, phải tương thích và đủ năng lực giải quyết những vấn đề mà thực tiễn phát triển của đất nước đặt ra. Vì thế, đổi mới lãnh đạo là tất yếu, vừa là quy luật lịch sử vừa là nhu cầu cấp bách để hiện thực hóa mục tiêu phát triển trong kỷ nguyên mới.
ĐS&PL: Việc đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền trong giai đoạn phát triển mới chắc chắn cũng đặt ra không ít thách thức. Đâu là những vấn đề cần chú ý, thưa ông?
PGS.TS Nguyễn Bá Chiến: Thách thức là hiện hữu khi đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền trong giai đoạn phát triển mới. Điều này, đòi hỏi tầm nhìn và năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đã được thể hiện rõ trong bộ tứ Nghị quyết của Đảng (Nghị quyết 57, 59, 66, 68). Có thể thấy, những thách thức chủ yếu hiện nay gồm 3 nhóm sau đây:
Thứ nhất, năng lực xây dựng thể chế kiến tạo phát triển chưa đủ mạnh: pháp luật, bộ máy, phối hợp liên ngành còn rời rạc…
Thứ hai, năng lực thực thi còn phân mảnh: năng lực phân tích chính sách, năng lực công chức chuyên môn, năng lực hệ thống chưa đồng bộ…
Thứ ba, thực hiện minh bạch và trách nhiệm giải trình chưa liên tục và toàn diện,…
Những thách thức này hoàn toàn có thể vượt qua nếu chúng ta nhận diện đúng và có giải pháp đồng bộ. Theo tôi, Đảng cần thực hiện một sự kết hợp biện chứng, hài hòa giữa hai vai trò: “nhà lãnh đạo tư tưởng” và “nhà quản trị phát triển”.
ĐS&PL: Thưa ông, đâu sẽ là giải pháp để Đảng ta hài hòa giữa hai vai trò: “nhà lãnh đạo tư tưởng” và “nhà quản trị phát triển”?
PGS.TS Nguyễn Bá Chiến: Trước hết, Đảng vẫn cần tiếp tục kiên định mục tiêu lý tưởng nhưng linh hoạt trong phương pháp lãnh đạo. Mục tiêu cao nhất của Đảng là xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; mọi người dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đây là “ngọn cờ lý tưởng” không bao giờ thay đổi. Còn phương thức “quản trị thực thi” là công cụ, là con đường để hiện thực hóa lý tưởng đó một cách hiệu quả nhất trong bối cảnh mới.
Đảng cần phải tiếp tục nhấn mạnh giá trị tư tưởng, đạo đức cách mạng, khơi dậy truyền thống yêu nước trong mỗi cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân. Việc đổi mới phải dựa trên nền tảng lý luận vững chắc của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Khi mục tiêu, lộ trình và cơ chế thực thi luôn gắn kết với lợi ích chính đáng của nhân dân, thì vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng vừa mang tính chính danh lịch sử vừa có chính danh quản trị phát triển gắn với thành quả thực tiễn.
Điều quan trọng thứ hai là cần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đủ năng lực và phẩm chất thích ứng với bối cảnh mới. Cán bộ trong giai đoạn này không chỉ cần có bản lĩnh chính trị vững vàng mà còn phải có năng lực chuyên môn, kỹ năng quản trị hiện đại, tư duy đổi mới mạnh mẽ, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với thử thách, khó khăn.
Cần có một chiến lược quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn và bố trí cán bộ đáp ứng được yêu cầu của mô hình quản trị mới này. Đảng cần tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có tư duy khoa học, phong cách làm việc chuyên nghiệp, hiện đại và cập nhật chính sách, pháp luật kịp thời để tổ chức thực thi hiệu quả. Năng lực thực thi và hiệu quả công việc phải là tiêu chí hàng đầu để đánh giá cán bộ.
Thứ ba, cần phải chú trọng phân định rõ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của Nhân dân. Đảng lãnh đạo bằng việc đề ra tầm nhìn, chiến lược, đặt hàng các mục tiêu phát triển cho Nhà nước, và giám sát quá trình thực hiện. Trong bài viết, “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, yêu cầu cấp bách của giai đoạn cách mạng mới”, Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ: Đảng cầm quyền bằng pháp luật, lãnh đạo định ra Hiến pháp và pháp luật, đồng thời hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Cán bộ, đảng viên của Đảng chấp hành, “thượng tôn” pháp luật. Tổng Bí thư cũng nhấn mạnh: “Đảng cầm quyền phải có trách nhiệm với mọi thành công và thiếu sót trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc”. Nhà nước với bộ máy chuyên nghiệp, sẽ tổ chức thực thi các mục tiêu đó bằng các công cụ pháp luật, chính sách. Nhân dân tham gia giám sát, phản biện và thụ hưởng thành quả. Việc này sẽ tăng cường niềm tin khi người dân thấy quyền lợi của mình được chú trọng, và được thụ hưởng từ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
Sự rành mạch trong phân định rõ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của Nhân dân, tránh cho Đảng bị sa vào sự vụ, hành chính hóa, giữ được vai trò bao quát, dẫn dắt, định hướng chiến lược.
Thứ tư, cần tăng cường kiểm soát quyền lực và dựa vào dân. Mô hình quản trị thực thi trao nhiều quyền hạn và trách nhiệm hơn cho các cá nhân, tổ chức. Do đó, cơ chế kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí phải càng chặt chẽ, hiệu quả hơn. Đồng thời, phải mở rộng hơn các kênh đối thoại chính sách để người dân tham gia vào quá trình hoạch định, thực thi và giám sát chính sách. Sức mạnh và sự chính danh của Đảng suy cho cùng vẫn bắt nguồn từ nhân dân và vì nhân dân.
Thứ năm, triển khai thực hiện những cái mới, cái chưa có trong tiền lệ theo phương thức cơ chế thí điểm – nhân rộng, hoặc được quyết định ngay khi đã có đủ cơ sở lý luận và thực tiễn. Dùng phương pháp thử nghiệm có kiểm soát, đánh giá độc lập rồi nhân rộng thay vì áp dụng ồ ạt. Đây là cách thức dung hòa giữa cải cách, đổi mới và giữ tính ổn định để phát triển.
Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bản chất cách mạng, lý tưởng tiên phong với năng lực quản trị quốc gia ưu việt của Đảng củng cố vững chắc tính chính danh của Đảng trong lãnh đạo nhà nước và xã hội. Khi Đảng chứng minh được rằng sự lãnh đạo, cầm quyền của mình không chỉ đúng đắn về đường lối lịch sử mà còn vượt trội về hiệu quả quản trị phát triển, thì vị thế và niềm tin của nhân dân dành cho Đảng sẽ ngày càng được củng cố và nâng cao. Qua đó, Đảng vừa thể hiện năng lực quản trị hiện đại, khoa học, để vừa giữ vững chính danh lịch sử, vừa khẳng định chính danh quản trị phát triển.
ĐS&PL: Xin cảm ơn ông về cuộc trao đổi.