Nghe tin đồng bọn bị bắt giữ, Ninh bỏ trốn sang khu vực biên giới giữa Việt Nam-Trung Quốc. Tại đây, ông trùm ma túy đất Cảng đã nhờ người phụ nữ tên Nhung "chạy án" với số tiền khoảng 8,5 tỷ đồng.
Theo thông tin đăng tải trên báo VietNamNet, ngày 8/5, Cục cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy cho biết, vừa hoàn tất kết luận điều tra, đề nghị truy tố 5 đối trượng trong đường dây ma túy do Nguyễn Văn Ninh (SN 1972, ở Hải Phòng) cầm đầu.
"Ông trùm" Nguyễn Văn Ninh - Ảnh: báo VietNamNet |
Báo VOV thông tin, Nguyễn Văn Ninh được Nguyễn Đình Khu (SN 1972) thuê vận chuyển ma túy với tiền công từ 100-120 triệu đồng/chuyến. Tham gia với Ninh còn có Trần Văn Tú (SN 1980), Trần Xuân Khoát (SN 1984) và Trần Văn Khuyến (SN 1980) - cùng quê Hải Dương. Tiền công Ninh trả cho 3 người này mỗi chuyến thành công là 40 triệu đồng.
Sau nhiều chuyến hàng trót lọt, đến ngày 22/8/2015, Tú, Khuyến, Khoát bị bắt quả tang cùng 30 bánh heroin. Nghe tin, Ninh bỏ trốn sang sang khu vực biên giới giữa Việt Nam-Trung Quốc.
Trong thời gian này, Ninh gặp và quen với Lưu Thị Kim Nhung (SN 1977) - quân nhân công tác, đóng quân tại TP.Nha Trang, Khánh Hòa. Qua quen biết, Ninh nhờ Nhung chạy án để có thể được ngoài vòng pháp luật, không còn dính dáng đến những kẻ vừa bị bắt. Tổng số tiền Ninh trao cho Nhung để chạy án khoảng 8,5 tỷ đồng.
Nghĩ bỏ số tiền lớn Ninh đã thoát khỏi tầm ngắm của cơ quan công an, nên anh ta lập tức quay về Việt Nam gặp gỡ Đàm Thuận Miện (SN 1977, quê Bắc Ninh) để xây dựng đường dây ma túy mới.
Không được bao lâu, nhóm của Miện bị bắt, đến ngày 6/6/2016, Ninh sa lưới pháp luật. Lúc này, trùm ma túy mới biết mình đã bị Nhung lừa tiền chạy án.
Từ lời khai của Ninh, với chứng cứ thu thập, C47 chuyển hồ sơ Lưu Thị Kim Nhung cho cơ quan điều tra của Bộ Quốc phòng. Cơ quan điều tra của Bộ Quốc phòng đã khởi tố Nhung tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Điều 194. Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009: 1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Có tổ chức; b) Phạm tội nhiều lần; c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; d) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; đ) Vận chuyển, mua bán qua biên giới; e) Sử dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma tuý cho trẻ em; g) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ năm trăm gam đến dưới một kilôgam; h) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ năm gam đến dưới ba mươi gam; i) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới hai mươi lăm kilôgam; k) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới hai trăm kilôgam; l) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới năm mươi kilôgam; m) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ hai mươi gam đến dưới một trăm gam; n) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ một trăm mililít đến dưới hai trăm năm mươi mililít; o) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm g đến điểm n khoản 2 Điều này; p) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm: a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ một kilôgam đến dưới năm kilôgam; b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ ba mươi gam đến dưới một trăm gam; c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ hai mươi lăm kilôgam đến dưới bảy mươi lăm kilôgam; d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ hai trăm kilôgam đến dưới sáu trăm kilôgam; đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới một trăm năm mươi kilôgam; e) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ một trăm gam đến dưới ba trăm gam; g) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ hai trăm năm mươi mililít đến dưới bảy trăm năm mươi mililít; h) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 3 Điều này. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ năm kilôgam trở lên; b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ một trăm gam trở lên; c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ bảy mươi lăm kilôgam trở lên; d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ sáu trăm kilôgam trở lên; đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ một trăm năm mươi kilôgam trở lên; e) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ ba trăm gam trở lên; g) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ bảy trăm năm mươi mililít trở lên; h) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 4 Điều này. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Chú ý: Thông tin pháp lý trong hộp nội dung này được trích từ nguồn trên mạng Internet, nên chỉ mang tính tham khảo |
(Tổng hợp)