Sau khi cáo quan về quê, ở Côn Sơn, ông ngoại của Nguyễn Trãi cũng là một tôn thất nhà Trần đã kể cho Nguyễn Trãi nghe nhiều câu chuyện về Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Trong đó, có câu chuyện trong cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trực tiếp chỉ huy đánh địch hướng Quảng Tây sang Lạng Sơn, bố trí tuyến phòng ngự ở những nơi xung yếu. Đạo quân Nguyên từ Quảng Tây tiến sang theo hai đường. Một đường qua hướng Tây qua ải Chi Lăng (Lạng Sơn), một đường theo hướng phía Đông qua ải Khâu Cấp, tức là theo con đường từ Lộc Bình (Lạng Sơn) đi Sơn Động (Bắc Ninh).
Đại quân của Thoát Hoan và A Lý Hải Nha tiến theo sau cánh quân phía Đông. Bản doanh của Hưng Đạo Vương đóng ở ải Nội Bàng. Đây là chiến ải lớn nằm ở khu vực giữa thung lũng sông Lục Nam, địa thế bằng phẳng, rộng rãi, rộng rãi, có thể chứa được hàng vạn quân. Hai bên ải là dãy núi Bảo Đài và Huyền Đinh Yên Tử bao bọc. Sông Lục Nam chảy giữa thung lũng tạo nên một trục giao thông thủy bộ nối liền vùng đồng bằng với miền núi. Chặn ngang thung lũng là ngọn núi Ải đồ sộ, tạo nên hai cửa ra vào thung lũng, cửa phía Tây giáp núi Bảo Đài, cửa phía Đông giáp sông Lục Nam. Dựa vào địa thế hiểm trở, Trần Hưng Đạo cho xây dựng phòng tuyến và đặt đại bản doanh ở đây (khu vực Phượng Sơn, Lục Ngạn, Bắc Giang nay là Bắc Ninh).
Trên mặt trận Lạng Sơn, ngày 25/12/1287, ngay khi quân Nguyên vượt qua biên giới, đã bị quân ta chặn đánh. Sau một trận giao chiến tiêu hao sinh lực đội tiên phong của giặc, theo kế hoạch quân ta rút lui. Ngày 29/12, đạo quân của Thoát Hoan tiến đến Lộc Bình - Lạng Sơn. Thoát Hoan chia quân làm hai cánh tiếp tục tiến công, theo con đường phía Đông và phía Tây qua đất Lạng Sơn như trong cuộc chiến tranh trước. Trịnh Bằng Phi và Bột La Hợp Đáp Nhi chỉ huy một vạn quân Hán tiến theo con đường phía Tây từ Vĩnh Bình đến Chi Lăng. Thoát Hoan và Áo Lỗ Xích dẫn đại quân theo con đường qua các ải Nữ Nhi, Khải Ly (tức Lộc Bình đi Sơn Động).
Ngày 01/02/1288, bọn phản bội và quân hộ tống tiến đến ải Nội Bàng bị quân Trần và tướng quân, quân địa phương và dân binh Chi Lăng (Lạng Sơn), Lạng Giang (Bắc Ninh), thổ binh các làng bản biên giới tiêu diệt gần hết. Đây là những lực lượng vũ trang vốn có nhiệm vụ phòng thủ vùng này. Họ đã từng chặn đánh địch khi chúng tiến từ biên giới xuống. Sau khi quân địch đã vượt qua, trừ một bộ phận quân triều đình có nhiệm vụ rút lui để bảo toàn lực lượng, tiếp tục chiến đấu ở tuyến sau, thì lực lượng còn lại gồm quân chủ lực làm nòng cốt và quân địa phương đã quay lại đứng vững và hoạt động sau lưng địch. Đội quân này có điều kiện là thông thạo địa hình, lại bất ngờ đánh địch từ trong lòng chúng, phối hợp với các lực lượng tiếp tục chặn địch đang tiến công trong một thế trận xen kẽ giữa ta và địch. Thế trận đan cài này xuất hiện rộng rãi trong cuộc kháng chiến lần thứ hai đã làm cho quân Nguyên rất hoảng sợ . Những câu chuyện ấy đã tạo một dấu ấn trong lòng cậu bé Nguyễn Trãi về mảnh đất Chi Lăng trong lịch sử hào hùng của dân tộc.
Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi
Sử sách còn ghi lại, khi vua tôi nhà Hồ bị bắt trong đó có Nguyễn Phi Khanh, giặc Minh giải cha ông về Trung Quốc xử tội. Nguyễn Trãi và em trai là Nguyễn Phi Hùng, đóng giả là dân phu để khiêng cha và hầu cha dọc đường. Đưa cha sang Trung Quốc với hy vọng đem được hài cốt cha từ nơi đất khách quê người trở về quê hương.
Hơn ai hết, Nguyễn Phi Khanh hiểu rõ tấm lòng hiếu thảo của con trai mình mãnh liệt tới mức có thể chết để thực hiện cho kỳ được ý định đó. Là một người sáng suốt, Nguyễn Phi Khanh biết nếu cứ để Nguyễn Trãi đi theo hầu mình để thực hiện ý định thì cả cha con đều bị chém chết trên đất giặc; ông hiểu rất rõ tài năng, đức độ của con trai mình, ông tin rằng Nguyễn Trãi có thể trả thù nhà đền nợ nước được. Trên đường từ Sơn Động (nay là Bắc Ninh) đi Lộc Bình (Lạng Sơn), đến Chi Lăng, Nguyễn Phi Khanh: “Từ trong cũi, ông già quắc thước, râu tóc bạc phơ, khuôn mặt nhân từ và đôi mắt sáng như sao… đưa rá cơm lên sát người dân phu, lấy ngón tay trỏ thon dài chỉ vào rá cơm đầy sỏi cát như ra hiệu… ngón tay ấy ung dung vạch lên giá cơm một hàng chín chữ nho “Hữu quy phục quốc thù, khốc hà vi dã?” và khóe mắt già nua của ông bỗng sáng rực như ngọn lửa. Nghĩa là “Hãy quay trở về trả thù cho nước, khóc mà làm gì?”. Nguyễn Trãi vâng lời cha, Nguyễn Phi Khanh gật đầu vẻ mãn nguyện, mắt đăm đăm nhìn về phía chân trời xa ở phương Nam”. Nguyễn Phi Khanh chọn Chi Lăng làm nơi trao lại sứ mệnh giải phóng giang san đang đắm chìm trong máu lửa, tàn ác cho người con trai Nguyễn Trãi là một việc làm rất sâu sắc.
Vì vậy, Đại Huề - vốn là một người yêu nước, trọng nhân tài - đã đích thân cùng một số người thân tín quá nửa đêm hôm ấy đưa Nguyễn Trãi lên ải Bắc qua con đường tắt xuyên núi, xuyên rừng đến nhà một người bạn là tù trưởng ải Bắc có họ Triệu (bề ngoài trá hàng che mắt địch, bên trong bí mật gửi lương thảo nuôi nghĩa sĩ) để lợi dụng sự hợp pháp của người tù trưởng để lập một đại lễ đón mừng quan quân “thiên triều” đi chinh phạt về nhưng thực ra là lập đàn tế để tế sống và vĩnh biệt cha cùng những người lâm nạn bị nhà Minh bắt về phương Bắc. Đây cũng là lời thề trung hiếu với dân với nước của những người ở lại, một ngày kia sẽ trả thù nhà đền nợ nước.
Dấu tích Thành Kho. NSNA Bùi Thuận
Sau khi chia tay cha, Nguyễn Trãi được nghĩa quân Đại Huề và nhân dân địa phương che trở trong căn cứ địa của ông. Nguyễn Trãi lưu lại ở đây một thời gian. Tương truyền thời gian này, chiều chiều ông đi vác quốc, giả đi lấy nước vào ruộng nương để nghiên cứu địa hình địa vật. Trong đó, ông đặc biệt lưu tâm đến Lân Dao, Làng Chung, Đền Quỷ Môn Đại Vương, Thành Kho, Núi Vua Ngự. Đỉnh Núi Vua Ngự gần di tích Hòn Đá Mổ Lợn, đường Thượng Sơn phía Tây sau làng Khuôn Áng xã Chi Lăng, đường Hạ Sơn phía Đông thuộc xã Quan Sơn (Lạng Sơn), xuôi về Tân Sơn, Lục Ngạn (Bắc Ninh) và Đông Triều (Quảng Ninh).
Nguyễn Trãi hiểu rằng, tại ải Chi Lăng, Núi Vua Ngự “không chỉ là nơi đặt vọng gác tiền tiêu tốt mà còn là hậu cứ tiếp tế cho quân ta đánh tập hậu không nơi nào bằng, lương thảo chuyển lên lại không khó để có đồ nấu ăn cho sỹ tốt… Đứng ở đây, hướng mặt về phía Tây ta nhìn rõ mồn một toàn cảnh trận đồ Chi Lăng như trong lòng bàn tay….”. - nơi in dấu chân của vua Lê Hoàn và các vị tướng thiên tài như Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Trần Tung, Phạm Ngũ Lão… Phía Đông Núi Vua Ngự mở ra vùng rộng lớn có thể nuôi giấu và luyện quân được. Nuôi ngựa Bạch xã Quan Sơn là một một dấu tích còn lại của những ngày trường kỳ chuẩn bị cuộc kháng chiến. Đứng ở phía Tây đỉnh Núi Vua Ngự sẽ bao quát toàn bộ trận đồ Chi Lăng như lòng bàn tay.
Còn nữa