Trước ngày 9/1/2025, tại khoản 2 Điều 2 Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định về xuất trình, nộp giấy tờ khi đăng ký hộ tịch, cấp bản sao trích lục hộ tịch thì người đăng ký kết hôn (bao gồm cả kết hôn chỉ có yếu tố trong nước, kết hôn có yếu tố nước ngoài) phải nộp bản chính Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.
Và tại Điều 10 Nghị định 123/2015/NĐ-CP cũng quy định, nếu thực hiện việc đăng ký kết hôn mà người yêu cầu đăng ký kết hôn không thường trú tại cấp xã nơi đăng ký kết hôn thì phải nộp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.
Tuy nhiên, kể từ ngày 9/1/2025, tại điểm c khoản 3 Điều 2 Nghị định 07/2025/NĐ-CP đã bổ sung thêm khoản 5 Điều 3 Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định rằng:
"Đối với yêu cầu đăng ký kết hôn, cơ quan đăng ký hộ tịch tra cứu thông tin về tình trạng hôn nhân của người yêu cầu đăng ký kết hôn trên Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp tỉnh thông qua kết nối với Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Kết quả tra cứu được lưu trữ dưới dạng điện tử hoặc bản giấy, phản ánh đầy đủ, chính xác thông tin tại thời điểm tra cứu và đính kèm hồ sơ của người đăng ký.
Ảnh minh họa.
Trường hợp không tra cứu được tình trạng hôn nhân do chưa có thông tin trong Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, thì cơ quan đăng ký hộ tịch đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người yêu cầu thường trú/nơi đã đăng ký kết hôn xác minh, cung cấp thông tin. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu xác minh, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi nhận được đề nghị xác minh có trách nhiệm kiểm tra, xác minh và gửi kết quả về tình trạng hôn nhân của người đó".
Đồng thời, mới đây Bộ Tư pháp có Công văn 481/BTP-HTQTCT ngày 04/02/2025 về việc triển khai thực hiện các quy định của Nghị định 07/2025/NĐ-CP. Trong đó, một trong những nội dung Bộ Tư pháp đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quan tâm triển khai như sau: "Khi tiếp nhận yêu cầu đăng ký kết hôn, cơ quan đăng ký hộ tịch không yêu cầu nộp Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân".
Như vậy, từ năm 2025, người dân khi đăng ký kết hôn sẽ không cần nộp giấy xác nhận độc thân (giấy xác nhận tình trạng hôn nhân), cơ quan đăng ký hộ tịch sẽ tra cứu thông tin về tình trạng hôn nhân của người yêu cầu đăng ký kết hôn trên Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp tỉnh thông qua kết nối với Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Trường hợp không tra cứu được tình trạng hôn nhân do chưa có thông tin trong Cơ sở dữ liệu thì cơ quan đăng ký hộ tịch đề nghị UBND cấp xã nơi người yêu cầu thường trú/nơi đã đăng ký kết hôn xác minh, cung cấp thông tin. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu xác minh, UBND cấp xã nơi nhận được đề nghị xác minh có trách nhiệm kiểm tra, xác minh và gửi kết quả về tình trạng hôn nhân của người đó.