Khi bị lực lượng chức năng ra hiệu lệnh dừng xe, tài xế Fortuner chở 100 bánh heroin liền tăng tốc bỏ chạy đâm vào xe của tổ công tác. Trước tình thế này, các chiến sỹ công an buộc phải nổ súng, bắn thủng lốp trước của ô tô.
Ngày 3/8, Cục CSĐTTP về Ma tuý (C47, Bộ Công an) đã kết thúc điều tra vụ án Lục Thanh Đồng (SN 1974, trú tại phường Đề Thám, TP Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng) về hành vi “vận chuyển trái phép chất ma túy”.
Theo kết luận điều tra, trước đó, đêm 18/3, tại khu vực trạm thu phí Quốc lộ 6, thuộc địa phận thị trấn Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình tổ công tác thuộc Bộ Công an phối hợp với Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển, Công an tỉnh Hòa Bình, CAH Chương Mỹ đã phát hiện chiếc xe ô tô Toyota Fotuner do Lục Thanh Đồng điều khiển có biểu hiện nghi vấn nên ra hiệu lệnh dừng xe kiểm tra.
Đối tượng Lục Thanh Đồng tại thời điểm bị cơ quan chức năng bắt giữ |
Tuy nhiên, lái xe không chấp hành và tăng tốc bỏ chạy đâm vào xe của tổ công tác buộc các chiến sỹ nổ súng cảnh cáo nhưng đối tượng vẫn cố tình bỏ chạy.
Trước tình thế này, lực lượng chức năng đã nổ súng bắn thủng lốp trước của ô tô, đối tượng Đồng vẫn ngoan cố bỏ chạy hơn 100 mét thì chiếc xe bị lật bên vệ đường.
Tang vật vụ án |
Khống chế tài xế, cảnh sát phát hiện người đàn ông này mang theo 247 triệu đồng. Kiểm tra bao tải văng ra từ xe Fortuner, lực lượng chức năng thu giữ 100 bánh heroin cùng gần 200 viên ma túy tổng hợp.
Kết quả điều tra xác định số ma túy này là do Đồng chở thuê cho một đối tượng tên là Ngọc (tức Ngọc Toàn) với giá 400 triệu đồng từ TP Cao Bằng xuống Hà Nội. Khi Đồng chở ma túy đến Trạm thu phí QL 6 thuộc địa phận thị trấn Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình thì bị tổ công tác bắt giữ.
Ngoài ra, đối tượng còn khai trước đó từ tháng 7/2016 đến tháng 3/2017 đã 5 lần tham gia vận chuyển ma túy (không rõ số lượng) từ Cao Bằng, Lạng Sơn về Hà Nội. Trong đó có 2 chuyến đã được người thuê trả công 800 triệu đồng.
Điều 194. Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009): 1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Có tổ chức; b) Phạm tội nhiều lần; c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; d) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; đ) Vận chuyển, mua bán qua biên giới; e) Sử dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma tuý cho trẻ em; g) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ năm trăm gam đến dưới một kilôgam; h) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ năm gam đến dưới ba mươi gam; i) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới hai mươi lăm kilôgam; k) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới hai trăm kilôgam; l) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới năm mươi kilôgam; m) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ hai mươi gam đến dưới một trăm gam; n) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ một trăm mililít đến dưới hai trăm năm mươi mililít; o) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm g đến điểm n khoản 2 Điều này; p) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm: a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ một kilôgam đến dưới năm kilôgam; b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ ba mươi gam đến dưới một trăm gam; c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ hai mươi lăm kilôgam đến dưới bảy mươi lăm kilôgam; d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ hai trăm kilôgam đến dưới sáu trăm kilôgam; đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới một trăm năm mươi kilôgam; e) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ một trăm gam đến dưới ba trăm gam; g) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ hai trăm năm mươi mililít đến dưới bảy trăm năm mươi mililít; h) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 3 Điều này. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ năm kilôgam trở lên; b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ một trăm gam trở lên; c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ bảy mươi lăm kilôgam trở lên; d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ sáu trăm kilôgam trở lên; đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ một trăm năm mươi kilôgam trở lên; e) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ ba trăm gam trở lên; g) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ bảy trăm năm mươi mililít trở lên; h) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 4 Điều này. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Chú ý: Thông tin pháp lý trong hộp nội dung này được trích từ nguồn trên mạng Internet, nên chỉ mang tính tham khảo |