Nhập thông tin
  • Lỗi: Email không hợp lệ

Thông báo

Gửi bình luận thành công

Đóng
Thông báo

Gửi liên hệ thành công

Đóng
Đóng

Bị tai biến, cụ ông ngã, chân gãy chuyển mùi hôi thối phục hồi thần kỳ nhờ phương thuốc gia truyền mấy trăm năm

(DS&PL) -

Ông Lý Quý Sông, vốn là cán bộ Sở Giáo dục Đào tạo Thái Nguyên, 78 tuổi, bị huyết áp cao, đi xe đạp, ngã gãy mấu chuyển lớn, chân bị bốc mùi thối đã phục hồi tốt.

Ông Lý Quý Sông, vốn là cán bộ Sở Giáo dục Đào tạo Thái Nguyên, 78 tuổi, xóm Gò Cao (Hóa Thượng, Đồng Hỷ, Thái Nguyên), bị huyết áp cao, đi xe đạp, ngã gãy mấu chuyển lớn (xương khớp háng). Đi viện điều trị mãi, rồi bệnh viện trả về.

Biết tiếng tăm một vị lương y tên Thanh, con ông Sông đến gặp, nhờ bà xem bệnh. Bà bước vào nhà, suýt nôn ói vì mùi thịt thối bốc lên tanh nồng. Một chân của ông Sông đã hoại tử, sưng gấp đôi, nhiều chỗ đen sì, rỉ nước màu vàng. Ông Sông không nói được nữa, nhưng vẫn nghe được.

Nhìn ông Sông, chị biết là bị tai biến mạch máu não. Đo huyết áp thấy cao vọt. Con cái muốn đưa ông đi cưa chân, nhưng ông không nghe, muốn “sống nguyên vẹn, thì chết nguyên vẹn”. Lương y Thanh cho uống thuốc, ngày đầu tiên ông Sông đã thấy dễ chịu. 7 ngày sau thì nói chuyện được. 1 tháng sau ngồi dậy được và 3 tháng sau thì tập đi và trở lại cuộc sống bình thường.

Con cháu ông Sông và hàng xóm láng giềng  tò mò về phương thuốc của vị lương y này. Theo tìm hiểu, phóng viên dần “vỡ lẽ” về phương thuốc quý.

Lương y Nguyễn Quý Thanh vốn có “dấu” lâu đời từ các cụ truyền lại.

Ông tổ đời thứ 10 dòng họ Nguyễn Quý, là cụ Nguyễn Thuần. Cụ Thuần quê ở Đức Trạch, Thường Tín, Hà Nội. Theo gia phả dòng họ, thì trước đó nhiều đời đã làm thuốc và đến đời cụ Thuần thì nổi trội. Tổng số dòng họ, có tới 20 vị được phong “Danh y bí dược”.

Thế kỷ 17, quan Tổng trấn Kinh Bắc nằm liệt, chữa trị khắp nơi không khỏi. Các thầy lang khi đó khám chữa đều bảo ông bị thiên đầu thống.

Thế nhưng, cụ Thuần chẩn mạch, bảo bị trúng phong. Cụ điều trị, 7 ngày sau thì quan Tổng trấn đi lại được. Quan Tổng trấn dắt cụ vào kinh thành gặp vua kể lại sự tình kỳ lạ. Cụ Quý Thuần bảo, dùng bài thuốc An cung gia truyền cứu quan Tổng trấn. Vua nghe vậy, liền nói với cụ Thuần và các quan: “Khanh giữ phương (phương thuốc) này để cứu đời, truyền lại cho con cháu mai sau. Ta cấm các thượng khanh y lý mang làm của riêng mình. Nếu xâm phạm ta cho khanh tùy ý”.

Khi đó, hoàng hậu bị sa bàn tràng, cụ dùng ngải cứu điều trị khỏi. Vua quý mến, giữ lại trong triều, ban cho chữ Quý, để con cái sau này được phú quý. Theo gia phả, cụ Nguyễn Quý Thuần thọ tới 115 tuổi. Khi chết, vua thương xót, phong cho chức Thái y, nên trong gia phả ghi là Cố Thái y Nguyễn Quý Thuần. Ông được chôn ở ngoại thành Thăng Long, cánh đồng Ngô Sài, Từ Liêm.

Bảng vàng lưu danh dòng tộc Nguyễn Quý

Cụ Nguyễn Quý Thuần sinh ra Thái y Nguyễn Quý Khuê. Cụ Khuê cũng đã dùng bài thuốc An cung cứu Thái tử. Thái tử uống rượu nhiều, trúng gió, nằm liệt, uống thuốc của cụ Khuê bình phục hoàn toàn. Cụ Khuê cũng được tiến cử phục vụ vua. Chết an táng tại quê nhà Quất Động, Thường Tín

Cụ Khuê sinh được hai thầy lang nổi tiếng, là Nguyễn Quý Thành và Nguyễn Quý Sán. Cụ Thành là Thái y triều Lê và cụ Sán là Trưởng nội y. Cụ Sán lập ra chi ở Đông Anh, làm thuốc rất nổi tiếng. Cụ Thành lập ra chi ở Bắc Giang. Tuy nhiên, con cháu cụ Thành chỉ lác đác có người làm thuốc, không có ai nổi bật.

Quay lại câu chuyện về lương y Nguyễn Quý Thanh, bà sinh năm 1956, ở làng Mai Đình, nơi ông tổ Quý Thành 7 đời trước về sinh cư. Bố làm cách mạng. Năm 1957, khi mới 1 tuổi, Bác Hồ về thăm, bế bé Thanh trên tay, khen là đứa bé thông minh, nhưng sau này lận đận. Năm 1960, bố mẹ đi xây dựng kinh tế mới ở Thái Nguyên. Bà có tới 8 anh chị em. Năm 1965, bố mất,Thanh sớm phải tần tảo cùng mẹ gánh vác gia đình, nuôi dạy các em. Chục tuổi đầu, suốt ngày lăn lộn ngoài đồng mò cua bắt ốc. Năm 1980 đi học sư phạm, rồi làm giáo viên ở Đồng Hỷ. Lấy chồng, bữa đói bữa no, phải đi rừng lấy củi, bán lòng lợn nuôi con.

Năm 1990, khi đi xe đạp, một chiếc xe máy tông vào, bà ngã mạnh, chấn thương cột sống, bại liệt. Nhà nghèo, bệnh nặng, bệnh viện cho về, nằm liệt ở nhà chỉ nghĩa đến cái chết. Nghĩ không còn đi dạy học được nữa, bà bảo con cả mang chồng giáo án đến bên giường rồi châm lửa đốt. Bà tính, đốt hết giáo án, rồi buông xuôi. Bỗng nhiên, chị phát hiện thấy cuốn sách có tên: “Gia đạo truyền”, của bố chồng. Cuốn sách rất cổ, đã ố vàng, màu xỉn, dán bằng nhựa cây, các trang giấy đã mục giòn, chữ nhòe nhoẹt.

Đọc cuốn sách, nuốt từng lời. Thuộc làu bài thuốc chữa gãy xương, bà gọi chị dâu đến bên giường hỏi: “Chị thương em thì đi lấy thuốc giúp em”. Theo chỉ dẫn, người chị dâu đi lấy thuốc, rồi chế biến theo hướng dẫn trong sách, bó thuốc suốt từ cổ xuống chân. Cứ ngày thay thuốc, thay băng mấy lần. Điều kỳ diệu đã xảy ra, từ người nằm liệt, baf Thanh đã đứng dậy, tập đi, rồi khỏe lại bình thường, mang vác 60kg như mọi người.

Lương y Thanh được nguyên Phó chủ tịch nước tặng quà.

13 năm trước, bố chồng bà Thanh bị tai biến mạch máu não, rồi qua đời. Trước khi chết, ông nắm tay con dâu bảo: “Con ơi, làm gì thì làm, nhưng không có gì bằng y đức con ạ!”. Câu nói và ánh mắt của bố chồng trước lúc chết khiến bà Thanh ám ảnh. Nhớ lại ngày ấy cùng việc tìm lại được quyển sách quý,bà bỏ nghề giáo, cứ đi khắp nơi hái thuốc, bó thuốc miễn phí cho những người gãy xương. Bà chữa bệnh nhưng không lấy tiền. Chữa khỏi bệnh thì người cho con gà, người cho cân gạo.

Cũng từ thời điểm đó, thế giới tâm linh huyền bí khai mở trong đầu chị. Hàng đêm, vừa nhắm mắt, thì người anh hy sinh trong kháng chiến chống Pháp cứ “hiện” về trong giấc mơ, dặn dò chị nên tìm học những bài thuốc của tổ tiên. Từ đó chị có quyết tâm đi học để có thêm kiến thức. Năm 2003, khi đã 50 tuổi chị có trong tay Chứng chỉ chuẩn hóa lương đa khoa do trường Đại học Y Dược Thái Nguyên cấp.

Tin vào giấc mơ, bà tìm về Bắc Giang, nghiên cứu gia phả của gia tộc một cách tỷ mỉ. Từ tên các cây thuốc, gồm cả tên Hán Việt và tên dân tộc, rồi mô tả cây thuốc, chị về các vùng núi, cùng các thầy lang dân tộc nhanh chóng tìm ra. Những cây thuốc quý trong bài thuốc An cung diệu dược được chị tìm thấy đầu tiên ở Bắc Kạn, là cây mạy tèo, thiên trúc hoàng, sằn sá mộc…

Những loại cây này bám trên vách đá cheo leo. Củ sằn sá mộc to như quả dừa bám trên vách đá. Từ củ thuốc đó, một cái dây leo bằng ngón tay mọc ra. Dây leo mọc rễ, hút dinh dưỡng nuôi cái củ kỳ quặc đó. Người dân vùng cao gọi nó là sằn sá mộc, nhưng các ông lang gọi là ô rô núi ruột đỏ. Đây là những vị thảo dược chính trong bài thuốc An cung mà các Thái y dòng họ Nguyễn Quý sử dụng. Bài thuốc được cụ tổ Nguyễn Quý Thuần đặt tên bài thuốc chủ đạo làm nên tên tuổi dòng họ là An cung diệu dược nay là An cung trúc hoàn.

Vừa học thuốc từ những cuốn sách cổ của dòng họ, bà Thanh vừa bốc thuốc cứu người. Bài thuốc An cung trúc hoàn cứu được cả ngàn người tai biến mạch máu não qua cơn thập tử nhất sinh, khiến tên tuổi chị gây chú ý đến các nhà nghiên cứu, các y bác sĩ. Được sự giúp đỡ của các nhà khoa học thuộc Liên hiệp các hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam, chị đã thành lập Trung tâm phát triển y học cổ truyền Việt Thanh quy tụ 13 lương y, bác sĩ, tiến sĩ dược cùng nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện các bài thuốc của dòng họ Nguyễn Quý.

Sau khi Đời sống pháp luật đăng tải bài viết về bài thuốc An cung trúc hoàn của lương y Nguyễn Quý Thanh, thì nhận được rất nhiều điện thoại của độc giả, xin được lương y tư vấn, chữa bệnh. Tòa soạn xin cung cấp số điện thoại để độc giả tiện liên lạc: 0988292525/0963.015.446

Dương Phạm

Tin nổi bật